Nam bộ vài nét lịch sử - văn hóa: tập 3
Tác giả: Trần Thuận
Phó Giáo sư Tiến sĩ Sử học
Sinh ngày 02.12.1957
Quê quán: Thừa Thiên Huế
Từ 1977 – 1986 dạy học ở Thừ Thiên Huế
Từ 1986 – 2008 GIảng dạy tại trường Cao đẳng Sư Phạm, Đại học Bạc Liêu
Từ 2008 đến nay Giảng dạy tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Nam bộ vài nét lịch sử - văn hóa: tập 3
--- Đặc trưng nổi bật trong văn hóa Nam bộ là sự cộng cư và giao thoa văn hóa giữa các tộc người. Do đặc tính của vùng “đất mới”, quá trình khai phá và tạo dựng diễn ra trong bối cảnh có sự chung tay của nhiều lớp cư dân, của nhiều tộc người, cà cư dân bản địa lẫn di dân từ mọi miền đến đây. Trong bức tranh Nam bộ từ thế kỷ XVII – XVIII, và cả sau này, mỗi tộc người có mặt ở đây, cho dù có khác nhau về văn hóa truyền thống và tôn giáo… nhưng họ vẫn thể hiện được nhiều nét tương đồng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội…---
Nam bộ vài nét lịch sử - văn hóa tập 3 sẽ đề cập đến những vấn đề sau: Cuộc nhân duyên giữa công nữ Ngọc Vạn với quốc vương Chân Lạp; Đặc điểm lịch sử vùng đất Bình Dương thời khai phá (thế kỷ XVII - XVIII); Bức tranh văn hóa Nam bộ dưới thời các chúa Nguyễn (thế kỷ XVII – XVIII); Chính sách của triều Nguyễn trong việc phát triển kinh tế - xã hội ở vùng đất Nam bộ; Nhà Nguyễn thực thi chủ quyền đối với vùng biển đảo Nam bộ (giai đoạn 1802 - 1858); Vùng đất Ba Giồng trong cuộc chiến giữa chúa Nguyễn với Tây Sơn ở Gia Định (1776 - 1788); Thương cảng Sài Gòn trong đời sống xã hội Nam kỳ thời thuộc Pháp; Lụa phương Nam; Tục thí giàn ở Nam bộ- Giá trị nhân văn và đôi điều trăn trở; Sài Gòn nửa đầu thế kỷ XIX qua ghi chép của người phương Tây; Sài Gòn trước lúc Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước; Việc xác lập, bảo vệ chủ quyền Côn Đảo và cuộc đấu tranh của tù nhân giải phóng Côn Đảo góp phần bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; Phụ nữ trong phong trào đô thị ở Sài Gòn góp phần làm nên thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước…
THAY LỜI NÓI ĐẦU
BẬP BÙNG ÁNH LỬA
Người dân Việt vốn mang trong mình ngọn lửa thiêng dân tộc được hun đúc hàng nghìn năm. Rời đất Tổ vào Nam khẩn hoang, dựng làng, mở cõi, ngọn lửa bập bùng xua đi gian khó, dẫn lối đưa đường tạo thế đứng hiên ngang. Ngọn lửa bập bùng xua bóng đêm đen, cháy cả tâm can nỗi lòng xa xứ, làm khiếp vía kẻ bạo tàn, thiêu rụi lũ xâm lăng, giữ gìn từng tấc đất cha ông đã bao đời gầy dựng.
Kháng chiến trường kỳ ngọn lửa lan nhanh, dân ta quyết phải giành tự do độc lập. Đất nước thanh bình, ngọn lửa thiêng thôi thúc, cháu con kết đoàn vượt mọi phong ba, xây dựng nước non ngày thêm tươi đẹp, để khỏi phụ lòng Tiên Tổ đã thắp sáng lửa tin yêu.
Mấy trăm năm trước, khi vùng đất này còn hoang nhàn đầy lau sậy, muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lềnh như bánh canh, đây đó cọp beo còn tung hoành ngang dọc, dấu chân người chỉ lác đác ở triền sông, cuộc Nam tiến cứ diễn ra như một dòng chảy bình thường, tất yếu của lịch sử, đã đưa lưu dân Việt đến đây cùng bà con Khmer đẩy lùi bóng tối. Họ ra công khai phá, tạo lập xóm làng. Năm 1620, cuộc nhân duyên Ngọc Vạn, con gái Phúc Nguyên với quốc vương Chân Lạp Chey Chetta II mở ra chân trời mới. Prey Nokor, Kas Krobey chỉ là điểm khởi đầu, dấu chân Việt lan rộng dần khắp Gia Định - Đồng Nai. Chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh hoàn tất về mặt pháp lý cho vùng đất phía nam Tổ quốc. Ngọn lửa bập bùng từ con cúi mang theo đã thắp sáng lên trong đêm dài tĩnh mịch, xua đuổi nguy cơ, xua đuổi nhọc nhằn. Đất lành chim đậu, nhưng nỗi nhớ cố hương, đau đáu ngày về, cứ trào dâng, quay quắt để tâm tư có cả buồn vui, để dâng lên thành câu hò, điệu hát.
“Ai về Bắc ta theo với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
Từ thuở mang gươm đi mở cõi
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”(1).
Ngọn lửa bập bùng réo gọi người ơi, quần tụ sẻ chia, chung lưng đấu cật, tạo dựng cuộc đời nơi đất khách xa xôi. Hoa - Việt - Khmer - Chăm,... thắm tình nhân nghĩa. Dẫu khác xa nhau về tập quán ở ăn nhưng cuộc sống lâu dần rồi trở nên quen thuộc. Khát vọng sống yên vui níu bước chân người cho những cuộc hôn nhân đầy thâm giao tình nghĩa ngày càng rộng mở gửi trao. Cónhững con người mang trong mình cả hai, ba dòng máu, hòa quyện trong tim cho ngọn lửa yêu thương thắp sáng lòng người. Những điệu hát Tiều, hát Quảng; Tuồng, Chèo, Hát bội; sân khấu Yukê,... tất cả ngân lên trong tình thân kết chặt. Tay bắt mặt mừng tình nghĩa thâm sâu. Ngọn lửa lòng sáng mãi đến muôn sau, cho cháu con truyền trao qua bao thế hệ.
Nắng mưa xin mãi chung tình,
Chín dòng sôngvẫn ngắm nhìn Thăng Long.
Và trong niềm cảm xúc dâng trào, ai đó cứ mãi ngâm nga:
Sài Gòn, Bến Nghé là đây,
Vẫn mang câu hát những ngày xa xưa.
Cuộc sống đói nghèo tăm tối dần cũng đi qua. Cuộc sống vui thêm trong những ngày lễ tết. Bánh tét, bánh chưng, ngọn lửa reo vui cho ngày đoàn viên hội ngộ, con cháu tựu tề bên bếp lửa ấm êm, phong vịquê hương làm nên tinh thần dân tộc. Ngọn lửa khơi thêm nỗi niềm xa xứ, cứ đau đáu trong lòng nỗi nhớ quê hương. Sông núi tụ về, uống nước nhớ nguồn xưa, trên bàn thờ gia tiên, ngọn lửa lòng sáng lên tình nghĩa cháu con hướng về ngàn năm đất tổ. Vì cuộc sống đói nghèo đành phải ly hương, tha phương cầu thực, để cứ mãi trong lòng ray rứt khôn nguôi, từ cái thuở ra đi tìm sự sống, để ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long, người ơi xin hãy nhớ. Chỉ một cội nguồn không thể cắt chia:
Dù ai đi ngược về xuôi,
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng Ba.
(Ca dao)
Chạnh lòng con sáo sang sông, sáo đi sáo lại về cùng nước non. Câu hát nghe sao màtha thiết thế. Cả cuộc đời này ai nỡ bỏ quê hương! Ai đã ra đi mà không từng bịn rịn, rời quê hương nào đã mấy ai vui!(1). Huyền Trân xưa cất bước ra đi mang về hai châu Ô, Rí. Ngọc Vạn sau tạo thế
đứng Đàng Trong để dải đất cực Nam về cùng Tổ quốc. Để con cháu muôn đời nhớ mãi đến ông cha. Để nước non này cứ mãi vươn xa.
Nỗi xót xa phận người vẫn đi cùng khúc hát hôm nay, để trong nắng xuân lòng người phơi phới. Hãy nổi trống lên, thắp sáng ngọn lửa thiêng để vui thêm ngày hội, lúa được mùa, cây trái đơm bông, cho dân gian thỏa lòng ước nguyện. Bàn tay chai sạn, mưa nắng dãi dầu, mồ hôi đổ giọt mặn môi. Đất không phụ lòng người, cao xanh đoái tưởng, ruộng đồng thẳng cánh cò bay, cho lớp dân đen cóngày mở mặt, trái ngọt cơm lành cho bõ những ngày lam. Cha ông xưa đồng khổ cộng cam để cháu con cóvùng đất hứa. Rắn rết muỗi mòng đã xua đi cùng quá khứ để môi sinh trù phú, cá tôm, lúa gạo đủ đầy. Trên vùng “đất mới” hôm nay, vùng đất một thời từng làm chơi ăn thiệt, cuộc sống thăng hoa, con người hào phóng không suy tính thiệt hơn, trung tín, thật thà, nghĩ sao nói vậy. Bạn bè tứ xứ đến đây, kẻ bán mua, người vui thú, hỷ hảo góp phần cho cuộc sống thêm tươi. Cảnh trí thiên nhiên thanh tú đẹp xinh, chứa đựng chất thi ca miệt vườn, sông nước.
Gió đưa gió đẩy,
Về rẫy ăn còng,
Về sông ăn cá,
Về đồng ăn cua.
(Ca dao Nam bộ)
Cả những nông phu lam lũ cũng vẫn lạc quan, cuộc sống chưa đến nỗi bần hàn để lo sau trước. Cứ vui vẻ với đời, thêm sức sống ngày mai. Được mùa ta quẩy thêm bầu rượu, có bạn tâm giao thỏa nỗi lòng.Vất vả mà khoan thai. Ngọn lửa cứ bập bùng tin yêu cuộc sống, cây đước, cây tràm mãi rướn sức vươn lên. Hào khí Đồng Nai rồi Chín con rồng quẫy mạnh làm nên diệu kỳ sức trẻ.
Ghe anh đỏ mũi trắng lườn,
Ở trên Gia Định xuống vườn thăm em.
(Ca dao Nam bộ)
Việc đi lại ngày càng thêm thuận tiện, sông rạch nối liền tình cảm sẻ chia. Gia Định - Đồng Nai nối dài Cà Mau, Rạch Giá, tạo thế liên hoàn “chữ S” Tổ quốc ta. Ngón chân trước biển cứ mãi tì ra, cho sức sống thêm phần tươi trẻ, xóm làng vui văng vẳng tiếng ầu ơ. Ngọn lửa cứ lan nhanh cuộc đời thêm sáng sủa, dẫu tháng năm dài cũng ấm áp lòng nhau.
Mồ hôi đổ xuống tạo dựng cuộc đời, nhưng cuộc đời đâu có được phẳng phiu. Bao nỗi oan khiên cứ phận nghèo đeo đuổi. Những kẻ cường quyền không còn nhân tính luôn rình mò o ép dân đen. Lửa âm ỉ trong lòng kiếp lầm than trâu ngựa, bập bùng rực lửa đấu tranh, chống bất công, đốt cháy những điều bất nhân, bất nghĩa. Máu của cha ông phải đổ xuống rồi, để đòi công lý. Công khai phá bao đời phải giữ gìn cho con cháu mới yên lòng về với tổ tiên. Các thế hệ cháu con lấy làm cảm kích.
Giỏi giang và kiên cường anh dũng, không chịu sống quỳ, không chịu buông xuôi. Vừa đấu tranh chống cường quyền tham bạo, vừa rực lửa căm hờn thiêu cháy lũ xâm lăng.
Ngọn lửa Tây Sơn xóa bỏ sự phân tranh, lửa bùng lên ở Rạch Gầm - Xoài Mút cho quân Xiêm hết lối ngang tàng. Quân Pháp sang với tàu sắt đạn đồng, làm Bến Nghé của tiền tan bọt nước, Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây(1). Lửa cháy Gia Định thành, lửa thiêu cả Đại đồn Kỳ Hòa, Đêm ngày ỏi tiếng Lang sa, thế nó càng ngày càng lộng(2), nhưng lửa đỏ kẻ thù chỉ làm cho quan quân triều đình khiếp sợ, màkhông thiêu cháy được thế trận lòng dân. Lòng người oán hận. Oán dường ấy, hận dường ấy, cừu thù dường ấy, làm sao trả được mới ưng(3). Cả Nam kỳ vùng dậy, lửa căm thù trút cả lên đầu Tây, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân, Thiên Hộ Dương, Trương Định,... cùng nhân dân làm cho kẻ thù bát đảo thất điên, lửa đốt cháy tàu Pháp Esperan, lửa bốc lên trên cánh đồng Nọc Nạng, lửa lan ra sáng cả Hòn Khoai trong Khởi nghĩa Nam kỳ; ngọn lửa rực trời Cách mạng mùa Thu, dân ta giành độc lập.
Kháng chiến trường kỳ lửa lại lan nhanh, lửa cháy nơi nơi, dân ta lại kề vai sát cánh, quyết phải giành cho được độc lập tự do. Quân Pháp thua to, nhưng nước nhàcòn chia cắt, ngọn lửa lòng lại âm ỉ, bùng lên. Khắp các miền quê đến tận đô thành phong trào dâng lên như thác đổ làm cho giặc Mỹ chơi vơi. Lũ tay sai muốn “đội đá vá trời” nhưng sức cùng lực kiệt. Lửa đô thành rực sáng cả đêm đen, rầm rập bước chân ta đi rung chuyển đường phố Sài Gòn(1) cùng nhiều đêm không ngủ, vì non sông phải tiếp bước Lên đàng, cả miền Nam giục giã tiếng loa vang. Bập bùng lửa căm hờn hòa với tiếng hát bừng lên. Ta đi khơi sáng thêm ngọn đuốc thiêng từ bao đời. Lời ca bốc lửa đấu tranh sáng lên ngời ngời. Dậy mà đi, đồng bào ơi! Dậy mà đi, đồng bào ơi!(2)
. Ngọn lửa thiêng Bồ tát sáng rực lên một góc trời, ngời ngời chân lý, khiến Ngô gia không còn chỗ dung thân. Đế quốc Mỹ bàng hoàng, sau những thua đau phải cuốn cờ nhục nhã, đám tay sai vội vã đầu hàng, non sông ta lại liền một dải sau ba thập kỷ trường kỳ kháng chiến chống xâm lăng.
Ngọn lửa ngút ngàn, sức mạnh cả ngàn năm, làm cho trời yên mây tạnh, cho môi em thắm lại nụ cười, cho trời xanh thắm nắng xuân vui(3). Chiến công nối tiếp chiến công qua mấy ngàn năm hun đúc lại viết nên truyền thống hào hùng cho con cháu yên lòng gìn giữ non sông.
Ngọn lửa thiêng tụ về trong cuộc sống hôm nay để dắt dìu cháu con vượt qua muôn ngàn phong ba, thửthách, tìm đến bến vinh quang, xây dựng nước non này ngày thêm tươi đẹp, không phụ lòng tiền nhân đã thắp sáng lửa tin yêu. Đất trời giao thoa trong những ngày xuân, xin hãy thổi bùng lên ngọn lửa yêu thương cho lòng người quần tụ, cho nhân loại bớt niềm đau.